AcDieu225
Co Vang

.

.

Cung chuc tan xuan

==MỘT GIAO-THỪA TRONG ÐỜI==

                       

(Vương-Mộng-Long)


Trại tù Suối Máu - Biên-Hòa
 
     Từ cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân Sĩ quan cấp tá của QLVNCH từ nhiều trại tập trung quanh Sài-Gòn đã bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam Hiệp (Biên-Hòa).
     Vào một đêm giữa tháng 10/1975, từ Long-Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc xe  Molotova bít bùng kín mít.Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh"biên chế", tôi lại bị chuyển sang khu K3, tại đây chỉ chứa Sĩ quan cấp Thiếu-tá. Tôi bị giam ở đây từ ngày 01/11/1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (Tháng7/1976).Thời gian này, tin tức truyền thanh và truyền hình về tình hình thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, hình như Cộng sản Viêt-Nam đang trên đường tiến chiếm Thái-Lan. Thế Giới Tự-Do như càng lúc càng xa với chúng tôi hơn.
     Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đình, nước non, thời qúa khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện trò, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng. Chính quyền giải phóng đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người một để xét tha(?). Cũng có tin bi quan cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Tòa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai của mình rồi sẽ đi về đâu???
     Tôi ở lán 24 thuộc K3 (Lán là nhà, K là khối, danh từ VC). Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Ðà-Lạt gồm anh Trần-Ngọc-Dương (Khóa 10); Nguyễn-Lành (K16); Hoàng-Thế-Bình (K18); Tạ-Mạnh-Huy (K19); Khóa 20 gồm có Ngô-Văn-Niếu và tôi Vương-Mộng-Long. Lán của tôi cách lán 17 vài thước tây...Lán 17 có ba anh BÐQ (K20/VB) tên là Nguyễn-Cảnh-Nguyên, Trịnh-Trân và Quách-Thưởng.Trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau rền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy. Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, vì nó nằm trên con đường đi ra nhà xí, cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù nhân tại đây hầu như là bất trị. Anh trưởng lán 24 tên Trần-Thành-Trai nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân Y viện Duy-Tân (Ðà-Nẵng). Bác sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm"Học tập tốt"để được sớm tha về với vợ con, vì vậy cứ mỗi lần lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn tìm cách thi hành sốt sắng và đúng đắn.
     Thằng Niếu, bạn tôi được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp nên phần cơm của nó dư ra được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn-Phong-Cảnh (K10/TÐ) người nằm cạnh tôi.
     Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây cũng trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đình thì có những gói qùa nhỏ gửi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn thì đành trông chờ vào những gì của ban chỉ huy trại ban phát cho. Trong thời gian này, các lán gấp rút tập luyện văn nghệ để trình diễn vào đêm giao thừa. Ðể khỏi phải tập ca nhảy múa, tôi tình nguyện làm công tác tạp dịch, quyét tước dọn dẹp vệ sinh...Trong khi mọi người ca múa, xả rác thì tôi đi lượm rác và xách nước về cho các bạn cùng lán rửa tay rửa mặt khi nghỉ xả hơi. Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài hàng rào K3.
     Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù nhốt Phiến cộng Tam-Hiệp của Quân-Ðoàn 3 khi trước.Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào, lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù. Ngoài cùng là rào mìn phòng thủ, trại tù Phiến cộng này có sáu khối, mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, rào bởi mìn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia thì chúng tôi phải hét gào lên cho thật to mới nghe được tiếng nhau. Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến được vài sự đổi đời. Cái miếu thờ Thổ-Ðịa ngày nào nay đã trở thành cái chuồng nuôi heo của tụi cán bộ. Nhà Thờ và Niệm-Phật-Ðường của trại tù binh thành chuồng nuôi gà sản xuất. Sư và Cha tuyên úy của trại này chắc cũng đi tù đâu đây không xa??? Ngoài ra, bên kia hàng rào mìn là bãi cỏ trống rồi tới Quốc lộ số 1.
     Trên Quốc lộ 1, xe Lam ba bánh chạy ngược chạy xuôi, người người vội vàng của buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng chúng tôi và trại tù, có lẽ đôi ba người dân có liên hệ hoặc ai nào đó còn nhớ tới chúng tôi chăng??? Những Sĩ quan cấp tá của QLVNCH, những người đã bảo vệ chế độ cho tới viên đạn, hơi thở và đến giờ cuối cùng. Những người chậm chân, chạy không kịp để bây giờ đang bị nhốt ở đây trong khu nhà tù do chính tay Công Binh VNCH xây dựng lên từ trước đó nhiều năm.
    Sáng nay bầu trời trong xanh thật đẹp không bị áng một gợn mây nào cả...Từ hướng phi trường Biên-Hòa, bên kia là cánh đồng trồng khoai mì, những chiếc F5 thực tập lên xuống, lượn vòng. Ðưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu tá KQ Trần-Chiêu-Quân nói với tôi rằng, sau ngày 30/04 đã có một số phi-công của VNCH bị trưng dụng để huấn luyện cho phi-công VC lái những chiếc máy bay của chúng ta còn tốt để lại. Những chiếc F5 sáng như bạc đang đảo lộn trong không gian.Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao...Làm sao quên được??? Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà-Kiệu (Quảng-Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu Bổn say sưa nhìn những cánh F-4C; F-5A của Hoa-Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông vùng trời trách nhiệm của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập...Khói đạn bom bay cuồn cuộn.
     Rồi tới trận Tết Mậu-Thân (1968) với những chiếc AD-6 Skyrader dềnh dàng chậm rãi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam Ly (Ðà-Lạt). Khi bom chạm mục tiêu từ đó những sợi lửa lân tinh trắng xanh trông giống như những cái vòi của con bạch tuộc khổng lồ đang vươn lên cao...
    Còn nữa...Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày tôi nghe tiếng quen thuộc của phi cơ L-19 lè xè của Võ-Ý (K17). Chiếc L-19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ya Drang, thung lũng Tử Thần. Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom, chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây lướt trên ngọn cột cờ căn cứ. Xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng pin, đạn và gạo sấy...Con tàu đã vội vã lật bụng đảo một vòng và thoát chạy về phía Ðông vì phòng không đan như lưới, thảy cho nhau được thùng nào hay thùng nấy!!! Thảy đồ xong là chạy, đồ tiếp tế có thùng còn được nguyên dạng, có thùng vỡ tan tành, có thùng bay vào bãi mìn thì nằm yên vị tại đó...Như thế cũng qúy hóa lắm rồi!!! Rất cám ơn người anh em Nguyễn-Công-Cẩn (K21) và phi đoàn 229 Lạc-Long. Rồi đêm xuống, cứ như là "Ðúng hẹn lại lên." 
   "Thái Sơn đây Hỏa-Long gọi!"Chiếc C-47 của anh Trần-Bạch-Thanh (K16) đã có mặt trên vùng, những đóm mắt hỏa châu lập lòe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm lòng. Ðã mất rồi ngày xưa ấy!!!
    Giờ này tôi đang đứng nhìn những cánh chim sắt chao lượn trên đầu mà người lái không phải là quân bạn!!! Tiếng động cơ F5 nghe sao qúa xót xa???
 
                                                                 ***
 
     Tôi đang nhổ cỏ thì thấy một đoàn người từ hướng ban Chỉ huy trại hò nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong. Tấm bảng nền đỏ chữ vàng"Không Có Gì Qúi Hơn Ðộc Lập Tự Do"được nâng niu như trứng mỏng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên đôi vai khẳng khiu...Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước đi tới phía trước.
     Mới vài tháng trước đây họ còn là những vị Chỉ huy oai phong lẫm liệt...Giờ đây đành cam thân phận sống trong cảnh đọa đầy, ngày nào họ cũng ra đi rất sớm cho tới chiều tối mới trở về. Họ dựng những cái cổng chào, họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường và trồng lại những chỗ hàng rào trại sắp sửa bị hỏng hoặc xiêu vẹo...Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc-Hội ViêtNam Thống Nhất ra đời. Những vị Sĩ quan cao cấp này đã khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng hiệu "Không Có Gì Qúi" tại trại tù Tam-Hiệp.
      Tôi có quen vài người trong số những người hằng ngày xuất trại làm mộc, như cựu CHT/BÐQ/QLVNCH là Ðại Tá Trần-Công-Liễu (K8/VB)và cựu TÐP/Nhảy Dù là Thiếu Tá Trương-Văn-Vân (K20/VB). Cả hai vị đó sau này nơi đất Bắc đã thành hai ông đội trưởng nổi tiếng"Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh."
      Chín tháng sau ngày chế độ VNCH sụp đổ, tôi đã chứng kiến một hoạt cảnh chẳng bao giờ có thể ngờ được:
      Trên trời phi công VC đang lái F5, trước cổng trại tù Sĩ quan cấp tá QLVNCH đang dựng cổng chào, quanh hàng rào của trại tù Sĩ quan cấp tá VNCH đang làm cỏ. Nơi nơi người ngưòi chuẩn bị đón Xuân. Thật ra thì mỗi người đang mang một nỗi niềm, một tâm sự riêng tư...
Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong vòng rào trại K3, khi đi ngang qua sân bóng chuyền tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn ra...Một bên là Th/tá Trần-Ðạo-Hàm thủ khoa (K17/VB), bên kia là một tay Th/tá KQ tên là Lê-Hữu-Khái (K15) và thằng bạn tôi là Nguyễn-Bích (K20) đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm. Cái miệng thằng Bích lớn lắm, la hét vỗ tay bình luận ồn ào, anh Hàm thật là may mắn có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn-Bích ủng hộ nên anh có vẻ như đang thắng thế dẫn điểm. Tôi thấy nhiều người đã để ghế"xí"chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để "xí"chỗ xem phim TV của đài SaiGon Giải Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập"Trên Từng Cây Số"và"Ðại Uý Ðen"của Ba-Lan.
      Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài xì phé, xập xám trướng và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại tù. Tôi đã chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những qùa cáp từ gia đình gửi vào như: kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ thiếu...v.v. Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau lòng ở K3 năm ấy.Có một vị Th/tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào chia ra làm đôi để trả cho chủ nợ một nửa thì phát hiện ra một bức thư"chui"của người bà con giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau lòng người đọc như sau:"Chị ấy đã gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi rồi. Chị ấy cũng đã đi lấy chồng rồi!!!Anh đừng buồn, cố gắng học tập lao động cho thật tốt cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dậy con anh". Cái tin bất ngờ sét đánh đã làm cho ông Quận sững sờ làm buông rơi những con bài cơ; rô; chuồn; bích xuống bàn. Từ đấy, tôi thấy ông ta suốt ngày thẫn thờ bên hàng rào nhìn về phía xa xăm...Ðôi lúc tỉnh táo ông ôm cây đàn Guitar Solo những bài nhạc tình ca xưa thật hay và cũng buồn đứt ruột.
      Tôi bồi hồi nhớ lại lời Tổng-Thống nói ngày nào:"Ðất nước còn, còn tất cả. Ðất nước mất, mất tất cả".Ôi! Lời Tổng-Thống nói thật là hữu lý. Tổng-Thống ơi! Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để giữ nước...Nhưng chúng tôi không thể giữ nổi!!!Chúng tôi lấy làm xấu hổ lắm. Sao ông không ở lại giữ nước với chúng tôi??? Lúc này đã thật sự mất hết tất cả rồi!!!
Về tới lán tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh và mười cục đường tán do anh bạn BÐQ Bắc-Hải (Phan-Văn-Hải) ở lán 22 gửi tặng cho. Tôi, Phan-Văn-Hải, Huỳnh-Bá-An, Phan-Ðộ, Trần-Hữu-Bảo cùng (K20) xuất thân từ trường Nam Tiểu học Ðà-Nẵng. Chúng tôi là học trò của cô giáo Phan-Thị Tịnh-Hoài lớp Nhất C. Hải là Sĩ quan khóa đặc biệt Thủ-Ðức, anh về phục vụ cùng đơn vị BÐQ của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối cùng của cuộc chiến Th/tá Phan-Văn-Hải giữ chức vụ TÐT/TÐ89/BÐQ. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ và tiếp tế. Nhưng hắn bài bạc lại giỏi nên lúc nào cũng sung túc hơn người có gia đình nhiều...Chiều hôm đó anh lán phó hậu cần HQ Th/tá Bùi-Tiết-Qúy thâu tiền của trại viên trong lán để gởi cán bộ trại mua dùm mì gói, tương chao, xì dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết.
Tối đến sau khi đã chia hết phần đường cho người mua. anh Qúy cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non mà anh trồng được bên hàng rào. Làm đội phó hậu cần cũng có đôi chút bổng lộc!!!Ðâu ai ngờ cuộc đổi đời???
      Sáng ba mươi Tết lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho lán 9 nhà bếp.Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung, những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển từ bưng biền chắc đã lâu rồi. Gạo thì đã mốc xanh mốc vàng, những tổ sâu gạo to như nắm tay, khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ thì những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe...Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh âý nói rằng nếu vứt bỏ hết tổ sâu đi thì hết gạo ăn."Cứ nấu tưới đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều"Prồ-tê-in", sâu gạo chứ có phải là giòi bọ ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán!". Khi chảo cơm bắt đầu sôi lên thì nhiều khách khất thực nước cơm đã cầm ca đứng đợi sẵn, anh Cung cho vài người mà cũng từ chối đôi người.Người có phần thì líu ríu cám ơn, người không được thì tiu ngỉu ra về, miệng lẩm bẩm:"đ.m...đ.m".Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là"Ðôị quân cầm ca". Chữ"cầm ca"ở đây không có nghĩa là ca hát, ca sĩ hay ca kỷ gì hết mà có nghĩa đen chỉ sự cầm ca1i ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông phát cho lính bộ-binh dùng ấy mà! Dân cầm ca phải xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa lò cơm để chờ xin một ly nước cơm, chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau đôi lúc cũng gây ra cãi vã âủ đả. Vì nước cơm có chứa Vitamin B1 chữa được bệnh phù thủng(???).
       Sau này, khi ở trại tù Phú-Sơn 4(Thái-Nguyên) tôi có đọc đựơc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ  gạo mục gạo mốc.Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc là nguyên nhân gây ung thư gan mà nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc...Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân"cầm ca" ngày ấy? Chiều ba mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem về cả phần có lòng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó , thời buổi khó khăn những tay ghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào...Những danh từ"điếu cày, điếu bát, Hố-Nai, Cái-Sắn, Vĩnh-Phúc, Tiên-Lãng" nghe mãi cũng quen tai.
      Anh Hoàng-Kim-Thanh LÐT/LÐ24/BÐQ của tôi từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao thuốc ba số"555" và một lạng cà-phê. Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên thì tôi đi vòng vòng tán dóc với người bạn cùng khóa là Lưu-Văn-Ngọc cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân-Ðoàn 2.
 
                                                                     ***
 
      Tối ba mươi Tết tại K3(Suối Máu) không khí thật là rộn rã nhộn nhịp tưng bừng...Mọi lán đều đã chuẩn bị sẵn sàng chương trình văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp, đèn điện sáng choang, cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam che kín cả sân khấu. Trước giờ văn nghệ loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài SaiGon Giải Phóng mà Tô-Lan-Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù nhân cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng trình diễn gíup vui, đàn ghi-ta, trốn, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như là tôle, củi, ván gỗ...v.v.Các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán ghép thành các nhạc cụ. Tám giờ tối buổi liên hoan văn nghệ đêm ba mươi Tết bắt đầu.
Mở màn chương trình lằ bài đồng ca"Như Có Bác-Hồ tôi không nhớ là do lán nào trình diễn, kế tiếp người bạn Th/tá KQ Hoàng-Ðình-Ngoạn(K17/VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của "đồng bọn". Anh vừa hát được nửa bài tình ca, nhạc vàng"Mùa Xuân Trên Ðỉnh Bình Yên"thì bị cán bộ chặn lại đuổi xuông đài. Lý do,"Nhạc Ngụy"ủy mị! Sau đó chỉ những bài hát"giải phóng"được phép trình hát biểu diễn thôi.
      Tiếng sáo trúc Tô-Kiều-Ngân lâm ly bài"Mùa Xuân Trên TPHCM"hòa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn-Tuyên-Thùy. Tôi nghe vọng lại từ các khu khác, đại để bạn tù cũng chỉ hát những bài hát eo éo nghe rợn tóc gáy như:"Cô gái vót chông; Tiếng đàn Ta Lư; Năm anh em trên chiếc xe tăng"...v.v. Khắp sáu K sáng rực ánh đèn, vang rền tiếng nhạc...Năm mới đang từ từ tiến về...Ðến màn trình diễn của lán 24 vừa được giới thiệu thì tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một mình trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói lên trong tim tôi.
      Ngoài kia các bạn cùng lán của tôi không tự nguyện, nhưng đang phải đóng vai"dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy"trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán tôi biết họ cũng đau lòng không ít. Bạn Võ-Bị của tôi tên Tạ-Mạnh-Huy vì là Tây lai nên phải đóng gỉa làm Tây cho người ta trói, thằng Niếu thì đóng vai BÐQ"Ngụy"giơ tay đầu hàng để anh Dương Bắc-kỳ đóng vai ông bô lão nông dân ViêtNam"đả đảo".Mỗi lần tập xong các bạn tôi đều buồn lắm, họ đề nghị anh lán trưởng Trần-Thành-Trai cho tập một kịch bản lịch sử "Vua Quang-Trung diệt quân Thanh"nhưng anh ta không đồng ý. Anh ấy nói "ban chỉ huy trại đã ra lệnh"cho anh thì phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao-Thừa vì đây là trường kịch có tính cách"Lô-dzích"lịch sử(?)đấu tranh hào hùng của dân quân . Và đêm ấy anh lán trưởng Trần-Thành-Trai đã thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch "ViêtNam 4000 năm anh hùng".
       Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng Xuân Bính-Thìn, mùa xuân đầu tiên của nước "ViêtNam Thống Nhất"anh đội trưởng Trai đã được ban Chỉ huy trại tuyên dương"công lao" trước mặt bao nhiêu bạn tù. Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài"Tiến quân ca" thì tôi bật khóc...Một mình ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu qủa như đêm ấy! Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rồi tiếng lên đạn AK...Thình lình tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi làm mắt tôi chói loà"Anh kia làm gì mà ngồi khóc đấy? Sao không đi"rự lễ "mừng Xuân hả?" Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi. Tôi lấy tay che mắt như không thấy gì. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp:
"Anh có mồm không thì bảo? Câm à? Sao không gỉa nhời tôi?
Tôi vẫn ngồi im...Ánh đèn đảo một vòng quanh vách lán rồi tắt. Căn phòng tối om.Tôi nghe tiếng chửi:"Ðịt mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đã nhớ nhà đến phải khóc.Ông đây xa nhà hai"lăm"rồi mà ông có khóc đâu! Ðồ không biết xấu hổ!". Tôi vẫn lặng thinh . 
"Rầm!"
"Chảng!"
Tên bộ đội giận dữ đóng xập cửa lán. Nó còn bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle. Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước xa dần về hướng sân.Tôi nhìn đồng hồ tay(Khi đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù nhân) lúc ấy hai cái kim lân tinh chập vào nhau trên số 12:00 đúng là giờ! Giao-Thừa !
Ngoài sân tiếng ca hát vẫn còn dang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc ba số 555, trong tri óc tôi
hình ảnh những Giao-Thừa đã qua trong đời hiện về và mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa... 
Ngày xưa, mỗi độ Giao-Thừa cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có năm người mò mẫm trên những nhánh của hệ thống"đường mòn HCM" trên đất Lào hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt-Miên, tôi không lần nào quên nghe chương trình Giao-Thừa của Ðài Phát Thanh Quân-Ðội.
Giao-Thừa Xuân Bính-Thìn là Giao-Thừa đầu tiên trong đời tôi không tìm thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát:"Này công dân ơi!Ðứng lên đáp lời sông núi..." Bài quốc ca này đã đi vào lịch sử.
 
Một thế hệ đã hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đã cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác mình cho bài ca đó. Một thế hệ đa4 lớn lên thành người với bài ca đó. Một thế hệ sẽ mang theo nó xuống tuyền đài...Chợt tiếng anh lán trưởng Trần-Thành-Trai vọng lại trên loa phóng thanh:"Ðổi đời đã tới! Cách mạng dã thành công!" Tiếng hô lập lại hai chữ"Thành công!"của trại viên vang dội trong đêm Trừ-Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đã làm rung những tấm tôle trên mái lán.
Ðêm Trừ-Tịch tối đen như mực, tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè là bóng bụi rau rền, giàn mùng tơi hay những hồn ma bóng quế của cuối năm đang chập chờn đâu đây!!!
Ngoài xa vẳng lại từ bên K4, những ai đó bắt đầu hát bài "Lá Ðỏ"... 
 
                                                               ***
 
Vài năm sau ,tôi nghe tin cựu Y sĩ Th/tá Quân Y Viện Duy-Tân(Ðà-Nẵng)Trần-Thành-Trai đã được ra khỏi trại cải tạo. Bác sỹ Trai cùng Bác Sỹ Trần-Ðông-A cựu Y sĩ Th/tá Nhảy-Dù đã nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở SaiGon. Tôi cũng đã nghe tin giờ này bác sỹ Trai đang là một "dân biểu" của "Quốc Hội nước CHXHCNVN".
Nhân ngày đầu Xuân Ất-Dậu(2005)tôi nhớ lại chuyện xưa ba mươi năm về trước. Nhớ những bạn Võ-Bị, cựu tù lán 24 K3(Tam-Hiệp)trong số những người bạn đó thì hai người đã qua đời là Hoàng-Thế-Bình và Ngô-Văn-Niếu. Còn những bạn khác như: Dương; Lành và Huy thì đang ở Mỹ, không rõ họ còn nhớ chuyện ngày xưa này hay không??? Riêng tôi, cái đêm Giao-Thừa ba mươi năm về trước ấy đã trở thành bất tử đối với tôi. Vì đó là là lần đầu trong đời tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước...!!!    
 
                                                                              (Seattle, Lập Xuân)
                                                                      VƯƠNG-MỘNG-LONG (K20)
ad

Backgrounds

Tin Buồn